Nhật Bản được biết đến với hệ thống giáo dục đa dạng và chất lượng cao cũng như nền kinh tế mạnh nhất thế giới. Hệ thống giáo dục của Nhật Bản được đánh giá ở vị trí thứ 3 trên thế giới, chỉ đứng sau Anh và Mỹ. Ngoài ra, chất lượng giáo dục phổ thông của Việt Nam đứng thứ 67 trên toàn quốc và đứng thứ 4 trong các quốc gia ASEAN. Việt Nam đứng thứ 95 trong bảng xếp hạng giáo dục đại học và thứ 7 trong các nước ASEAN. Vậy chất lượng giáo dục ở Nhật Bản tốt hơn ở Việt Nam vì lý do gì? Hệ thống giáo dục của Nhật Bản và Việt Nam được so sánh dưới đây.
Table of Contents
So sánh số bậc học, cấp học, số năm học
Việt Nam và Nhật Bản đều có các cấp học là mẫu giáo, tiểu học, trung học, đại học và sau đại học( thạc sĩ và tiến sĩ) giống nhau nhưng lại có số năm học ở các cấp học lại khác nhau:
Bậc học | Việt Nam | Nhật Bản |
Mẫu giáo | 3 năm (3-6 tuổi) | 2 năm (4-6 tuổi) |
Tiểu học | 5 năm (6-11 tuổi) | 6 năm (6-12 tuổi) |
Trung học cơ sở | 4 năm (11-15 tuổi) | 3 năm (12-15 tuổi) |
Trung học phổ thông | 3 năm (15-18 tuổi) | 3 năm (15-18 tuổi) |
Đại học | 4 năm (18-22 tuổi) | 5 năm (18-23 tuổi) |
Sau Đại học | Thạc sỹ: 2 năm (22-23 tuổi) Tiến sỹ: 3 năm (23-27 tuổi) | Thạc sỹ và Tiến sỹ: 4 năm (23-27 tuổi) |
Giáo dục chuyên nghiệp | Cao đẳng, Trung cấp nghề, Trung cấp chuyên nghiệp đào tạo 2-3 năm. Học xong Trung học cơ sở, không thi lên Trung học phổ thông có thể học lên giáo dục chuyên biệt. |
So sánh về nội dung giáo dục
Việt Nam và Nhật Bản đều ưu tiên “tiên học lễ, hậu học văn”, nghĩa là dạy trò ý thức trước khi dạy kiến thức. Tuy nhiên, do khác biệt văn hóa giữa hai quốc gia, cách dạy của họ sẽ khác nhau.
Ở Việt Nam, học sinh lớp 2 có khả năng đọc viết chữ và xem báo, mặc dù chưa hiểu đầy đủ. Trẻ mẫu giáo được dạy bảng chữ cái trong khi họ chơi và học để cải thiện trí tuệ, thể chất và nhân cách. Học sinh trải qua hai kỳ kiểm tra lớn (giữa kỳ và cuối năm) và hai kỳ kiểm tra nhỏ (kiểm tra miệng, 15 phút và 1 tiết).
Tại Nhật Bản không nên dạy chữ viết cho trẻ em từ mẫu giáo đến lớp 3, vì chữ viết Nhật Bản chữ hán tượng hình khó học. Giáo dục trẻ về ý thức và thói quen như biết cảm ơn, xin lỗi, chào hỏi và tự mặc và đeo cặp. Học sinh chỉ được dạy thực hành hơn lý thuyết đến tận lớp 3.
So sánh phương pháp giáo dục
Dạy và học ở Việt Nam không dựa trên việc tổ chức hoạt động học tập của học sinh; chú trọng vào việc tăng cường khả năng học tập cá nhân và hợp tác, tăng cường khả năng học tập cá nhân và tự đánh giá của học sinh.
Nhật Bản đầu tư nhiều hơn vào giáo dục, họ có cơ sở vật chất, sách, thiết bị giáo dục, thư viện và internet tốt hơn so với nước ta. Điều này cho thấy phương pháp học tập tích cực của họ có hiệu quả hơn.
So sánh đánh giá kết quả học tập
Ở Việt Nam, có hai kỳ kiểm tra lớn: giữa kỳ và cuối năm; bên cạnh đó, có các kỳ kiểm tra nhỏ như kiểm tra miệng, kiểm tra 15 phút và kiểm tra 1 tiết. Bài tập được đánh giá bằng 10 điểm.
Nhật Bản coi trọng thành tích và sự cạnh tranh hơn, bao gồm công bố điểm bài thi và xếp loại thấp hơn trên toàn trường, bao gồm dán danh sách xếp loại trước sân trường và công bố điểm thi. Cách chấm bài đúng hết là 100 điểm.
Hệ thống giáo dục Nhật Bản đang trở thành một nền giáo dục tốt nhất trên thế giới nhờ sự đầu tư phát triển không ngừng của chính phủ. Đặc biệt, cho những sinh viên trong và ngoài nước, một môi trường học tập đáng mơ ước. Nhiều môn học mới chỉ dạy lý thuyết vì cơ sở vật chất ở Việt Nam không tốt cho học sinh thực hành. Nhà nước và Bộ Giáo dục đào tạo đang cố gắng cải thiện và nâng cao nội dung giáo dục của chúng ta, mặc dù nội dung rất cơ bản và hiện đại nhưng chưa hoàn thiện và thiết thực.